
 Sở Bảo Tồn và Giải Trí
 Sở Bảo Tồn và Giải Trí  Mục lục
 Mục lụcCác ao và đầm lầy giữa cồn cát
Các rãnh, vùng trũng và các bãi đất rất thấp trong các cồn cát ven biển hỗ trợ nhiều loại đất ngập nước có cây thân thảo và cây bụi chiếm ưu thế từ bão hòa đến ngập theo mùa. Các cộng đồng trong nhóm này có thành phần rất đa dạng và khó phân loại do sự thay đổi theo mùa của hệ thực vật, sự kế tiếp của các quần thể theo thời gian, sự thay đổi thủy văn theo thời gian và những thay đổi địa mạo nhanh chóng trong các hệ thống cồn cát động. Người ta biết rằng chúng phân bố từ New Jersey đến Bắc Carolina, và một số có thể phân bố xa hơn về phía nam. Ở Virginia, các vùng đất ngập nước này được giới hạn trong các khu vực phía sau bãi biển chắn sóng từ Bờ biển phía Đông (Quận Accomack và Northampton) đến Mũi Henry và Mũi False (Thành phố Virginia Beach). Thảm thực vật ở các ao và rãnh giữa cồn cát có xu hướng phân bố theo độ dốc địa lý, địa hình và thủy văn.
Swales and low dune hollows that have perched water tables and shallow, seasonal or temporary flooding support maritime wet grasslands or shrublands. The swales are predominantly influenced by fresh water from rainstorms, but some may be periodically flooded by salt water from ocean storm surges. A thin, organically enriched, surficial soil layer often contributes to moisture retention. Hydrologic regime and distance from salt spray appear to exert considerable influence on floristic composition. Typically, occurrences are densely vegetated by one or more species of grasses (e.g., saltmeadow cordgrass [Spartina patens]); rushes (e.g., Juncus scirpoides, Juncus dichotomus, Juncus acuminatus, Juncus megacephalus, or Juncus canadensis); or sedges (e.g., Cyperus odoratus var. odoratus, Fimbristylis caroliniana, or Schoenoplectus pungens var. pungens). In smaller, temporarily flooded swales where rushes are dominant, slender flat-top goldenrod (Euthamia caroliniana), long-leaved aster (Symphyotrichum novi-belgii var. elodes), Richard's yellow-eyed grass (Xyris jupicai) and slender bladderwort (Utricularia subulata) may also be characteristic. Swales further inland contain additional assemblages of species, including dwarf umbrella-sedge (Fuirena pumila), ladies'-tresses (Spiranthes spp.), water sundew (Drosera intermedia), southern bog clubmoss (Lycopodiella appressa), white-top fleabane (Erigeron vernus), whorled nutrush (Scleria verticillata), and narrow-leaf whitetop sedge (Rhynchospora colorata). Successional invasion of these herbaceous assemblages by shrubs increases with distance from salt spray and stability of the habitat. Wax myrtle (Morella cerifera) is the most characteristic interdune shrubland species, with high-tide bush (Baccharis halimifolia) frequently associated and northern bayberry (Morella pensylvanica), red bay (Persea palustris), and yaupon (Ilex vomitoria) present at some sites.
Các ao giữa cồn cát là vùng đất ngập nước giữa cồn cát sâu và thường xuyên nhất, bao gồm cả các ao nước ngọt, trong đó nước mưa và nước ngầm nhanh chóng pha loãng lượng nước mặn không thường xuyên, và các ao nước lợ nhẹ, chịu lượng nước mặn thường xuyên hơn. Loại sau, có chế độ độ mặn thay đổi theo thời gian từ hoàn toàn ngọt đến hơi trung bình, có lẽ được mô tả tốt nhất là ao có độ mặn thấp. Thành phần cộng đồng thay đổi tùy theo địa lý, vị trí địa hình, mức độ tiếp xúc với bão và hơi muối, chu kỳ thủy văn và tính chất đất. Các ao nước ngọt, ngập nước theo mùa thường có nhiều cây cỏ ba lá (ví dụ: Scirpus cyperinus, Schoenoplectus pungens var. pungens, Schoenoplectus tabernaemontani), cỏ (ví dụ Panicum virgatum var. virgatum, Coleataenia Rigidula ssp. condensa, Spartina patens), hoặc cỏ có thân vuông (Eleocharis tứ giác). Các vùng biên của một số ao nước ngọt có thể bị chi phối bởi các quần thể cây lau sậy gần như nguyên vẹn (Clidium mariscoides). Các ao có độ mặn thấp ngập theo mùa có thể bị chi phối bởi cây lau sậy lá hẹp (Typha angustifolia), cây dâm bụt đầm lầy (Hibiscus moscheutos) hoặc cây lác đầm lầy mặn (Bolboschoenus robustus), có thành phần giống với đầm lầy độ mặn thấp thủy triều. Các ao nước mặn ngập bán thường xuyên chủ yếu là cây kinh giới ven biển (Bacopa monnieri), cây cói trắng (Eleocharis albida) và cây rong đuôi chồn (Stuckenia pectinata).
Tất cả các loài trong nhóm này đều không phổ biến, chỉ có ở những cộng đồng nhỏ, hiếm hoi tồn tại trong môi trường mong manh. Chúng cũng hỗ trợ một số loài côn trùng quý hiếm của tiểu bang bao gồm bọ cánh cứng hổ (Cicindella trifasciata ascendens) và chuồn chuồn (Anax longipes). Giống như hầu hết các cộng đồng ven biển, mối đe dọa đối với nhóm này bao gồm sự phát triển và mực nước biển dâng cao.
Tài liệu tham khảo: The Nature Conservancy (1997).Nhấp vào đây để xem thêm ảnh về nhóm cộng đồng sinh thái này.
 © DCR-DNH, Gary P. Fleming.
 © DCR-DNH, Gary P. Fleming. 
    
 
  Tải xuống bảng tính thống kê tóm tắt thành phần cho từng loại cộng đồng được liệt kê bên dưới.
 Tải xuống bảng tính thống kê tóm tắt thành phần cho từng loại cộng đồng được liệt kê bên dưới.
 
 