
Sở Bảo Tồn và Giải Trí
Mục lụcĐầm lầy và ao trũng núi
Nhóm này bao gồm thảm thực vật bão hòa, ngập theo mùa và ngập bán thường xuyên của các vùng đất ngập nước lưu vực nằm trên các đỉnh núi rộng, thềm đất lở và các quạt phù sa chân núi của các tỉnh Ridge, Valley và Blue Ridge. Những cộng đồng tương tự được biết đến ở các vùng Ridge và Valley thuộc Tây Virginia và Pennsylvania. Những vùng đất ngập nước tự nhiên hiếm hoi này có diện tích lên tới khoảng 1.5 ha (3.7 ac) và được cho là hình thành từ sự võng xuống hoặc hòa tan của các tầng đá nền bên dưới hoặc các khối đất lở. Chế độ thủy văn thay đổi tùy theo từng vùng trũng, nhiều địa điểm có sự biến động mực nước theo mùa rõ rệt, cũng như sự phân vùng mạnh về độ sâu ngập lụt từ trung tâm đến rìa.
The most widely distributed community type over the Virginia range of these wetlands is a seasonally or semipermanently flooded pond variably dominated by buttonbush (Cephalanthus occidentalis) and three-way sedge (Dulichium arundinaceum var. arundinaceum). Physiognomy varies from a patchwork of buttonbush thickets and herbaceous openings to almost entirely herbaceous. Other characteristic species, varying from site to site, include broad-leaved arrowhead (Sagittaria latifolia), northeastern bulrush (Scirpus ancistrochaetus), inflated sedge (Carex vesicaria), bladderworts (Utricularia spp.), common mermaid-weed (Proserpinaca palustris), mild water pepper (Persicaria hydropiperoides), pale mannagrass(Torreyochloa pallida var. pallida), creeping spikerush (Eleocharis palustris, = Eleocharis smallii), and Canada mannagrass (Glyceria canadensis). Additional species more typical of ponds or zones with shallower flooding and/or shorter hydroperiods include winterberry (Ilex verticillata), highbush blueberry (Vaccinium corymbosum), common greenbrier (Smilax rotundifolia), small beggar-ticks (Bidens discoidea), silvery sedge (Carex canescens var. disjuncta), hop sedge (Carex lupulina), tussock sedge (Carex stricta), sharp-scaled mannagrass (Glyceria acutiflora), eastern mannagrass (Glyceria septentrionalis), dwarf St. John's-wort (Hypericum mutilum), and rushes (Juncus spp.).
Đất ngập nước ở vùng trũng có rừng thường chiếm các vùng ngoài cùng của các lưu vực có nhiều ao mở hơn và cũng xuất hiện ở các mảng biệt lập ở cả độ cao thấp và cao. Các loài cây chiếm ưu thế thường là cây thích đỏ (Acer rubrum) và cây bạch đàn đen (Nyssa sylvatica), trong khi cây thạch nam (đặc biệt là cây việt quất bụi cao [Vaccinium corymbosum và Vaccinium fuscatum]) có xu hướng chiếm ưu thế ở tầng dưới tán. Hệ thực vật thân thảo của những khu rừng này thường nghèo nàn, mặc dù có cây dương xỉ xích Virginia (Anchistea virginica) và cây dương xỉ quế (Osmundastrum cinnamomeum) thường tạo thành các mảng thống trị đáng kể.

Các vùng đất ngập nước lưu vực bị ngập lụt liên tục hoặc không liên tục xuất hiện trên các trầm tích quạt phù sa rộng, có tính axit dọc theo chân phía tây của dãy núi Blue Ridge được gọi một cách thông tục là các ao sụt thung lũng Shenandoah. Những vùng đất ngập nước này và các điều kiện địa mạo tạo ra chúng chỉ có ở một vùng hẹp trải dài qua phía đông các quận Augusta, Rockingham và Page ở trung tâm Thung lũng Shenandoah. Tại đây, quá trình hòa tan cục bộ các loại đá cacbonat sâu bên dưới và quá trình tái tạo vật liệu bề mặt bằng các dòng suối đã dẫn đến sự phát triển của nhiều ao tự nhiên có kích thước khác nhau từ dưới 0.04 ha (0.1 ac) đến hơn 1.5 ha (3.7 ac). Sự kết hợp đặc biệt của các đặc điểm của dung dịch được phủ bởi đất phù sa có tính axit và phù sa từ đá trầm tích biến chất của Blue Ridge đã tạo ra các vùng đất ngập nước có điều kiện thổ nhưỡng tương tự như môi trường sống ở Đồng bằng ven biển. Hồ sơ phấn hoa từ trầm tích đáy của hai ao ở Quận Augusta chứng minh sự tồn tại liên tục của vùng đất ngập nước trong 15,000 năm qua (Craig 1969). Hầu hết các ao trong khu phức hợp Thung lũng Shenandoah đều có mực nước thay đổi theo mùa. Đất sét bị phong hóa từ phù sa phyllite và đá phiến sét cản trở việc thoát nước, nhưng hầu hết mực nước trong ao đều giảm khi mùa sinh trưởng diễn ra và quá trình thoát hơi nước tăng lên. Chu kỳ thủy văn của nhiều ao hồ không đều và không thể đoán trước, thay đổi tùy theo kích thước và độ sâu của lưu vực, mức độ che bóng và điều kiện nước ngầm tại địa phương. Đất có thể giàu chất hữu cơ hoặc giàu đất sét. Nồng độ pH, canxi và magiê thấp kết hợp với nồng độ nhôm cao có thể làm suy yếu quá trình đồng hóa các chất dinh dưỡng đa lượng của cây trồng.
Có ba loại cộng đồng hiếm và đặc hữu xuất hiện ở các ao thung lũng Shenandoah. Cho đến nay, loại thảm thực vật phổ biến nhất là thảm thực vật ngập nước theo mùa, đặc trưng bởi cây sồi thông (Quercus palustris) rải rác và các loài thân thảo như cỏ tranh (Kellochloa verrucosa), cỏ tranh cao, phẳng (Coleataenia rigidula ssp. rigidula) và cỏ lác (Eleocharis acicularis), thích nghi tốt với chế độ ngập lụt theo mùa và rút nước trên đất khoáng. Kỳ lạ hơn là Spring Pond, một ao nước lạnh, luôn ngập nước với mực nước liên tục được bổ sung từ nguồn nước ngầm. Các loài chiếm ưu thế ở đây là cây kim giao (Orontium aquaticum), cây ống bảy góc (Eriocaulon aquaticum) và cây cỏ mực (Schoenoplectus subterminalis). Tại Horseshoe Swamp, một ha (2.5 ac) ao ngập theo mùa chủ yếu bị chi phối bởi cây cói Barratt (Carex barrattii) không có ở Đồng bằng ven biển.

Hệ thực vật ở các ao hố sụt Shenandoah Valley đáng chú ý vì tỷ lệ cao các loài quý hiếm và không liên quan đến nhiều mối quan hệ sinh học địa lý khác nhau. Cây hắt hơi Virginia (Helenium virginicum) là loài đặc hữu của những môi trường sống này và các ao hồ tương tự ở Missouri, trong khi cây kim ngân Virginia (Isoetes virginica) là loài đặc hữu của hai tiểu bang (Virginia-North Carolina) cũng được tìm thấy ở Piedmont. Các loài thực vật phía bắc được phân lập ở đây bao gồm cỏ lác răng cưa (Cyperus dentatus), cỏ lác mảnh (Carex lasiocarpa var. americana), cây ban Âu phương bắc (Hypericum boreale) và cỏ lác Torrey (Schoenoplectus torreyi). Ngoài cây cói Barratt, các loài cây không liên kết đáng chú ý ở Đồng bằng ven biển bao gồm cây cói lùn (Helanthium tenellum), cây cói quả đen (Eleocharis melanocarpa), cây cói Robbins (Eleocharis robbinsii) và cây cói maidencane (Panicum hemitomon). Hệ động vật của vùng đất ngập nước này cũng rất đáng chú ý, với các quần thể riêng biệt của loài kỳ giông hổ được nhà nước liệt kê (Ambystoma tigrinum) và một nhóm động vật có răng rất đa dạng (chuồn chuồn và chuồn chuồn kim) bao gồm một số loài quý hiếm và/hoặc không được nhà nước công nhận.
Đất ngập nước vùng trũng núi là môi trường sinh sản quan trọng của các loài lưỡng cư và động vật có vú (chuồn chuồn và chuồn chuồn). Mặc dù một số ao nằm trên đất của Cơ quan Lâm nghiệp Hoa Kỳ, nhiều ao vẫn không được bảo vệ và bị đe dọa bởi sự phát triển, thay đổi thủy văn, xe địa hình và tình trạng đổ rác. Hải ly, loài đã gây thiệt hại nghiêm trọng cho cộng đồng tự nhiên tại Spring Pond trong những năm gần đây, đang gây ra mối đe dọa bổ sung cho vùng đất ngập nước này.
Tài liệu tham khảo: Craig (1969), Fleming và Coulling (2001), Fleming và Moorhead (2000), Fleming và Van Alstine (1999), Rawlinson và Carr (1937).Nhấp vào đây để xem thêm ảnh về nhóm cộng đồng sinh thái này.
© DCR-DNH, Gary P. Fleming.
Tải xuống bảng tính thống kê tóm tắt thành phần cho từng loại cộng đồng được liệt kê bên dưới.